Thơ được định nghĩa một cách đơn giản là những gì thi sĩ viết ra. Vẻ đẹp của bất kỳ tác phẩm văn học nào cũng liên quan đến mức độ hài lòng của người đọc khi hiểu rõ tác phẩm đó. Chúng tôi nghĩ rằng khi tuân theo hai quy tắc này, độc giả nào cho rằng mình không thể đọc được thơ sẽ thấy mọi chuyện dễ dàng hơn.
Như đã nói ở trên, mặc dù kinh tế học thường là vấn đề thực tiễn, nhưng vẫn có sách kinh tế học thuần tuý lý thuyết. Sai lầm của một số người là không phân biệt được hai nghĩa của từ đồng ý. Có những sản phẩm do tác giả đưa ra mang tính chung chung, phổ biến nên có thể áp dụng cho tất cả mọi người.
Toàn bộ tác phẩm có những ẩn ý mà độc giả phải thận trọng không được bỏ qua. Khi đó độc giả nợ tác giả một lời đánh giá. Điều chúng tôi muốn lưu tâm là đa số mọi người, ngay cả những người đọc khá tốt, cũng không nhận thức được giá trị của việc đọc kiểm soát.
Sẽ là sai lầm khi coi việc tiếp nhận thông tin giống như bị một cái tát, hoặc nhận một gia sản hay một lời phán quyết của toà án. Thứ nhất là khi chúng ta học cách nói, thứ hai là khi ta học cách đọc. Xem lướt cả cuốn sách theo cách này, luôn chú ý tìm các dấu hiệu liên quan đến luận điểm chính, và vấn đề cơ bản của sách.
Việc yêu cầu bạn phác thảo những phần chính của cuốn sách, và chỉ ra chúng minh chứng và phát triển chủ đề chính như thế nào, chính là để hỗ trợ bạn nói về tính chỉnh thể của cuốn sách. Đức tin, đối với những ai có lòng tin, là sự chắc chắn nhất của kiến thức chứ không phải là một ý kiến mang tính thăm dò. Tác phẩm Đạo đức bàn về nhiều vấn đề: hạnh phúc, thói quen, đức hạnh, niềm vui,… Nhưng chỉ có những độc giả rất chú tâm mới có thể tìm ra ý tưởng chủ đạo.
Đa số chỉ cần hiểu sơ qua cấu trúc của sách. Nếu không bắt tay vào hành động thì sẽ không bao giờ giải quyết được vấn đề. Nếu lịch sử được đặt đâu đó giữa hai nhánh phân loại chính kia thì mọi người thường nhận xét rằng lịch sử gần với tác phẩm hư cấu hơn là khoa học.
Đến đây, chúng ta thấy rõ rằng điều quan trọng nhất khi đọc bất cứ tác phẩm triết học nào là phát hiện vấn đề mà tác phẩm đó đang cố gắng trả lời. Nếu độc giả không thể nói Tôi tán thành thì ít nhất cũng nên nói rõ tại sao mình lại phản đối, hay giải thích tại sao mình không thể ngay lập tức đưa ra nhận xét cụ thể. Nhưng mâu thuẫn thường chỉ được ám chỉ chứ không được nói thẳng ra.
Nhưng những nhận định đó sẽ chỉ là ý kiến cá nhân và hoàn toàn vô nghĩa nếu tác giả không đưa ra dẫn chứng cụ thể. Văn phong được dùng ở đây là đối thoại, thảo luận một đề tài giữa một số người với Socrates (sau đó là với một diễn giả ở Athen). Nó chính là sự vận động tư duy.
Tuy nhiên, khi đọc những cuốn sách hay mà độc giả không hiểu được thì đó là lỗi của họ. Có thể chúng ta không bao giờ biết được sự thật, nhưng dù sao những chuyên luận của Aristotle vẫn là một kiểu văn phong mới trong triết học. Nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng hoàn toàn.
Giả sử nếu ông sử dụng từ reading theo một nghĩa khác ở một phần khác trong cuốn sách - chẳng hạn trong cụm từ reading nature (bản chất của việc đọc) thì độc giả vẫn dễ dàng nhận thấy sự chuyển đổi sắc thái ý nghĩa của từ reading. Đó chỉ là những công cụ logic, không phải công cụ thơ ca. Họ biết rằng chỉ sau một thời gian ngắn, họ sẽ biết danh tính từng người.